Công việc trong sơ đồ mạng ADM Sơ đồ mạng ADM

Các công việc trong sơ đồ mạng ADM, (tiếng Anh là activity, hoặc work activity, hay task), thường ở 3 dạng sau:

Công việc thông thường

Các công việc thông thường trong sơ đồ mạng mũi tên ADM, là các công việc khoán gọn (tức là các gói công việc, hay công việc trọn gói) (tiếng Anh là: Work package), được phân chia thành nhiều cấp độ bởi Cơ cấu phân chia công việc, mà cấp độ nhỏ nhất của các công việc này là một công tác (tiếng Anh là task, dịch nghĩa là nhiệm vụ), tức là một hoạt động công việc do một tổ đội công nhân làm trên một phân đoạn sản phẩm (công đoạn). Các công tác thông thường sử dụng tới mọi loại nguồn lực (tài nguyên) như: nhân vật lực (tổ đội thợ và máy công cụ), nguyên vật liệu và thời gian (dạng tài nguyên đặc biệt). Các công tác (task) (còn gọi là công tác con - subtask, hay công tác chi tiết) là công việc trên một phân đoạn. Các cấp độ phân chia công việc, lớn hơn công tác có thể là các công tác tổng (hay còn gọi là các công tác khái quát - Summary task), trong dự án xây dựng là: các đợt thi công, tầng công trình, hạng mục công trình, toàn bộ một công trình, hay toàn bộ một tổ hợp công trình. Cấp độ cao nhất của công việc được phân chia bởi cơ cấu phân chia công việc là toàn bộ dự án (Dự án là một công việc tổng quát nhất). Các công tác có cùng tính chất chuyên môn, sẽ được thực hiện bởi cùng một loại nguồn nhân vật lực (thợ chuyên nghiệp), nếu được tổ chức tuần tự, liên tục nhau về mặt thời gian và liên tục cho ra các gói sản phẩm cùng loại, thì được gọi là một dây chuyền (production line) hay một công việc chuyên môn. Công việc thông thường là các công việc thật sự có tiêu tốn các loại tài nguyên.

Các công việc trong sơ đồ mạng mũi tên, thường được biểu diễn dưới dạng một mũi tên có hướng, luôn bắt đầu bằng một sự kiện (sự kiện bắt đầu của công việc đó) và kết thúc cũng được đánh dấu bằng một sự kiện (sự kiện kết thúc của công việc). Hai sự kiện của mỗi một công việc thường được thể hiện bằng một nút dạng vòng tròn, gọi là vòng tròn sự kiện. Mỗi vòng tròn sự kiện thể hiện các thông số sự kiện sau: thời điểm sớm nhất của sự kiện đó (là thời điểm sớm nhất mà sự kiện đó có thể xảy ra), thời điểm muộn nhất của sự kiện (là thời điểm muộn nhất mà sự kiện đó có thể xảy ra, số thứ tự của sự kiện đó trong sơ đồ mạng mũi tên ADM.

Công việc chờ đợi

Công việc chờ đợi hay sự chờ đợi là một "quá trình thực hiện công việc mà không thực hiện gì cả", ở đó chỉ tiêu tốn một loại tài nguyên đặc biệt chính là thời gian. Công việc chờ đợi thể hiện các gián đoạn công nghệ giữa các công việc thông thường liền kề nhau, theo đúng logic công nghệ. Công việc chờ đợi không tiêu tồn nhân vật lực và nguyên vật liệu. Công việc chờ đợi là một dạng công việc thật sự vì nó có tiêu tốn tài nguyên.

Các công việc chờ chính là các gián đoạn công nghệ (hay gián đoạn kỹ thuật) trong quy trình công nghệ, là các gián đoạn bắt buộc do khách quan gây ra, (khác với các gián đoạn tổ chức do chủ quan người tổ chức thực hiện công việc tạo ra).

Công việc ảo

Nhược điểm lớn nhất của sơ đồ mạng mũi tên ADM là chỉ thể hiện được trình tự các công việc theo kiểu tuần tự (quan hệ giữa các công việc trước sau chỉ theo một kiểu mối quan hệ duy nhất là: Kết thúc-Bắt đầu (Finish to Start, FS)). Giữa hai sự kiện bắt đầu và kết thúc, không thể biểu diễn được hai hay nhiều công tác con khác nhau, song song cùng bắt đầu tại một sự kiện và lại cùng kết thúc bởi sự kiện kia (tức là không tồn tại nhiều mũi tên công việc độc lập (cung đoạn độc lập, cung đoạn đơn), song song với nhau hoàn toàn, cùng xuất phát tại một sự kiện lại cùng kết thúc chung tại một sự kiện khác). Dạng thể hiện công việc tuần tự này chỉ thích hợp cho việc tổ chức sản xuất theo phương pháp tuần tự, mà không thích hợp cho việc tổ chức sản xuất theo các phương pháp tổ chức khác như: phương pháp tổ chức sản xuất song song, phương pháp tổ chức sản xuất theo dây chuyền, phương pháp tổ chức hỗn hợp (kết hợp tuần tự, song song, dây chuyền). Một công việc độc lập (subtask) chỉ có thể được tiến hành song song với một chuỗi hay nhiều chuỗi các công tác liên tiếp (tạo thành một công tác tổng summary task, cung đoạn phức), thì sơ đồ mạng ADM lại thể hiện được.

Để cải thiện nhược điểm trên, cho đúng thực tế là các công tác độc lập có thể được tổ chức thực hiện song song, muốn thể hiện bằng sơ đồ mạng ADM thì phải chuyển gần như toàn bộ các công tác song song độc lập (cung đoạn đơn) sang dạng cung đoạn phức nối hai sự kiện, chỉ để lại duy nhất một công tác song song độc lập nối hai sự kiện đó. Trên mỗi cung đoạn phức, công tác thật được nối tiếp với một mũi tên công việc mà mũi tên công việc này không tiêu tồn bất kỳ một nguồn tài nguyên nào cả. Mũi tên công việc được thêm vào đó gọi là công việc ảo hay công tác ảo (dummy activity, hay dummy task), nó không thể hiện bất kỳ một công tác thật (công việc thông thường và công việc chờ đợi) nào, mà chỉ thể hiện mối quan hệ phụ thuộc giữa các sự kiện trong sơ đồ mạng. Điều này đồng nghĩa với việc qua hai sự kiện ij, chỉ có một công tác ij duy nhất, nhưng lại có thể có nhiều chuỗi các công tác nối tiếp ik, kj (mà hoặc ik, hoặc kj là một công tác ảo, còn công tác kia là công tác thật).

Công tác ảo còn được gọi là sự phụ thuộc[3], vì nó thể hiện sự phụ thuộc vào nhau giữa một sự kiện nguồn (sự kiện coi là bắt đầu của công tác ảo) với một sự kiện đích (sự kiện coi là kết thúc của công tác ảo), qua đó nó thể hiện được mối quan hệ phụ thuộc của mọi công tác bắt đầu khởi công từ sự kiện đích (ở trên) với tất cả các công tác kết thúc bởi sự kiện nguồn (ở trên).

Việc sử dụng công tác ảo, làm cho cách thể hiện tiến độ bằng sơ đồ mạng mũi tên ADM trở nên đúng thực tiễn hơn. Tuy nhiên, do phải thêm hàng loạt các công việc ảo vào tiến độ thể hiện bằng sơ đồ mạng ADM, nên làm cho tiến độ trở nên rất cồng kềnh và phức tạp. Chính vì vậy mà người Mỹ về sau chuyển sang sử dung mạng PDM, là dạng mạng nút, cải tiến từ mạng MPM và mạng ADM, trong các phần mềm quản lý dự án như Microsoft Project.